Ngày 26 tháng 11 năm 2014, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Đầu tư năm 2014 thay thế cho Luật Đầu tư năm 2005. Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015. Văn phòng Luật sư Ánh Sáng Luật xin trân trọng giới thiệu nội dung cơ bản của Luật Đầu tư năm 2014.
1. Phạm vi điều chỉnh và nguyên tắc áp dụng pháp luật đầu tư
a) Luật Đầu tư đã xác định rõ mối quan hệ cũng như nguyên tắc áp dụng Luật Đầu tư và các luật liên quan.
Theo Điều 4 Luật Đầu tư năm 2014: “Hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân thủ quy định của Luật này và luật khác có liên quan. Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật này và luật khác về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, trình tự, thủ tục đầu tư thì thực hiện theo quy định của Luật này, trừ trình tự, thủ tục đầu tư kinh doanh theo quy định tại Luật chứng khoán, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật dầu khí.”
b) Như vậy, theo quy định nêu trên, các hoạt động đầu tư chứng khoán, đầu tư thành lập tổ chức tín dụng, bảo hiểm thực hiện theo quy định tương ứng của Luật chứng khoán, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật dầu khí. Những vấn đề chưa được quy định trong các Luật nêu trên thì áp dụng theo quy định chung của Luật Đầu tư (như chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, bảo đảm đầu tư…).
c) Bên cạnh đó, những nội dung cụ thể của Luật Đầu tư năm 2014 đã phân định rõ mối quan hệ giữa Luật Đầu tư với các luật liên quan khác nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật; cụ thể là:
– Trong quan hệ với Luật Đầu tư công và Luật quản lý, sử dụng vốn đầu tư của nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh: Luật Đầu tư không điều chỉnh quá trình lập, phê duyệt kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công, đồng thời cũng không quy định nguyên tắc, thẩm quyền và thủ tục quyết định thực hiện dự án sử dụng vốn nhà nước vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, đối với dự án sử dụng vốn nhà nước để thực hiện các hình thức đầu tư quy định tại Luật Đầu tư, thì sau khi kế hoạch và chủ trương thực hiện dự án đã được quyết định theo quy định tại 02 Luật nêu trên, nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục đầu tư theo Luật Đầu tư và được hưởng ưu đãi, bảo đảm đầu tư theo quy định của Luật này.
– Trong quan hệ với Luật Doanh nghiệp: Luật Đầu tư quy định về lĩnh vực, điều kiện, hình thức đầu tư, thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư của tất cả các doanh nghiệp, trong khi Luật Doanh nghiệp quy định về quyền thành lập, hoạt động và tổ chức quản lý doanh nghiệp của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt hình thức sở hữu.
– Trong quan hệ với các luật về thuế: Luật Đầu tư quy định lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư và nguyên tắc áp dụng ưu đãi đầu tư, còn mức ưu đãi cụ thể được quy định trong pháp luật thuế và pháp luật có liên quan.
– Trong quan hệ với Luật Xây dựng: Luật Đầu tư điều chỉnh toàn bộ quá trình thực hiện dự án đầu tư, kể cả dự án đầu tư có công trình xây dựng. Tuy nhiên, việc lập quy hoạch xây dựng, khảo sát, thiết kế, thi công, giám sát thi công xây dựng công trình và quản lý xây dựng công trình phải thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng.
– Trong quan hệ với Luật Đất đai: Các quy định của Luật Đầu tư liên quan đến điều kiện sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất… đã được thiết kế phù hợp với quy định tương ứng của Luật Đất đai năm 2013.
2. Những quy định chung
a) Luật Đầu tư đã chuẩn xác lại khái niệm đầu tư, dự án đầu tư, dự án đầu tư mới, dự án đầu tư mở rộng và các khái niệm về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, trên cơ sở luật hóa quy định tương ứng trong các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật, đồng thời bãi bỏ một số khái niệm không còn thích hợp, trùng lặp với quy định của luật khác hoặc không cần thiết để điều chỉnh một số nội dung của Luật (như khái niệm vốn nhà nước, chủ đầu tư, đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài, đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp…).
b) Mặt khác, nhằm tạo cơ sở pháp lý áp dụng điều kiện đầu tư và thủ tục đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài, Luật đã sửa đổi khái niệm nhà đầu tư nước ngoài (Khoản 13 Điều 3) theo hướng thiết kế quy định này trên cơ sở quốc tịch, nơi đăng ký thành lập của cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng như tỷ lệ sở hữu, mức độ tham gia quản lý của tổ chức, cá nhân nước ngoài trong tổ chức kinh tế đã thành lập tại Việt Nam. Nhằm hoàn thiện chính sách đầu tư theo hình thức đối tác công- tư (PPP) phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật Đầu tư năm 2014 thay thế khái niệm về hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT bằng khái niệm chung nhất về hợp đồng đầu tư theo hình thức PPP. Theo đó, hợp đồng PPP gồm hợp đồng BOT, BTO, BT, và các hình thức hợp đồng khác được ký kết giữa Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư.
3. Bảo đảm đầu tư
a) Những quy định về bảo đảm đầu tư theo Luật Đầu tư hiện hành được các nhà đầu tư đánh giá về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như các cam kết quốc tế về đầu tư của Việt Nam tại thời điểm ban hành Luật Đầu tư. Tuy nhiên, để tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo đảm đầu tư phù hợp với cam kết quốc tế về bảo hộ đầu tư mà Việt Nam đã thỏa thuận trong thời gian qua, Bên cạnh những biện pháp bảo hộ cơ bản như Bảo đảm quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư (Điều 9), Bảo đảm chuyển tài sản của nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài (Điều 11), Bảo đảm giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh (Điều 14), Luật Đầu tư đã quy định một số nội mới cụ thể như sau:
– Bổ sung cam kết của nhà nước trong việc đối xử không phân biệt giữa các nhà đầu tư nước ngoài (nguyên tắc đối xử tối huệ quốc) phù hợp với điều kiện và lộ trình quy định tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (Khoản 1 Điều 10). Quy định này nhằm cụ thể hóa cam kết của Việt Nam về đối xử tối huệ quốc theo các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư.
– Bổ sung nguyên tắc không hồi tố về điều kiện đầu tư trong trường hợp pháp luật, chính sách thay đổi làm ảnh hưởng bất lợi đến điều kiện đầu tư đã được quy định tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (Khoản 1 Điều 13). Việc bổ sung quy định này nhằm bảo đảm để Việt Nam thực hiện đầy đủ cam kết trong WTO về việc không hồi tố các điều kiện đầu tư (phạm vi hoạt động, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài). Nguyên tắc không hồi tố là biện pháp bảo đảm đầu tư quan trọng, góp phần tạo môi trường đầu tư an toàn, tin cậy cho nhà đầu tư, nhất là trong bối cảnh hệ thống pháp luật đầu tư đang trong quá trình hoàn thiện, có nhiều thay đổi gây xáo trộn hoạt động đầu tư của nhà đầu tư. Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc này có liên quan đến thẩm quyền ban hành, điều chỉnh pháp luật. Do vậy, để bảo đảm tính khả thi của Luật và có thời gian hoàn thiện quy định về vấn đề này trên cơ sở tổng kết, rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện, Luật Đầu tư năm 2014 giao Chính phủ quy định chi tiết điều kiện, thủ tục thực hiện.
b) Ngoài ra, để phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như cam kết của Việt Nam theo các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Điều 14 Luật Đầu tư năm 2014 đã bổ sung Khoản 4 về giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư. Theo đó, việc giải quyết tranh chấp giữa cơ quan nhà nước và nhà đầu tư thông qua trọng tài chỉ được thực hiện trong trường hợp có thỏa thuận trọng tài theo hợp đồng giữa các bên tranh chấp hoặc theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
4. Ưu đãi và hỗ trợ đầu tư
4.1. Các quy định về ưu đãi đầu tư
a) Trên cơ sở kế thừa quy định của Luật Đầu tư năm 2005, Luật Đầu tư năm 2014 khẳng định nguyên tắc nhà đầu tư được hưởng ưu đãi đầu tư khi có dự án đầu tư thuộc lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư và ưu đãi này được áp dụng cho cả dự án đầu tư mới và dự án đầu tư mở rộng (Điều 15).
b) Luật Đầu tư năm 2014 đã quy định thủ tục áp dụng ưu đãi đầu tư theo cơ chế nhà đầu tư căn cứ vào các ưu đãi và điều kiện hưởng ưu đãi đầu tư quy định tại Luật này để tự xác định ưu đãi và làm thủ tục hưởng ưu đãi đầu tư tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trường hợp nhà đầu tư có yêu cầu xác nhận ưu đãi đầu tư thì thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư để được ghi ưu đãi đầu tư tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (Điều 17).
c) Hình thức ưu đãi đầu tư tập trung vào ưu đãi về thuế và đất đai:
– Áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp;
– Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện để thực hiện dự án đầu tư;
– Miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất.
Về Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu (Điều 16)
d) Luật Đầu tư đã hoàn thiện các quy định về lĩnh vực ưu đãi đầu tư theo hướng tiếp tục khuyến khích các dự án có công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, khoáng sản, đất đai, v.v..
e) Nhằm đảm bảo tính khả thi, minh bạch và đồng bộ giữa quy định của Luật này với quy định của pháp luật liên quan, Luật Đầu tư năm 2014 đã làm rõ tiêu chí xác định một số dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư chưa được quy định cụ thể trong Luật hiện hành, như: dự án sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển kết cấu hạ tầng, v.v..
f) Về địa bàn ưu đãi đầu tư: Luật Đầu tư năm 2014 kế thừa những quy định của Luật Đầu tư năm 2005 khi quy định địa bàn đầu tư bao gồm:
– Địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn;
– Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
4.2. Các quy định về hỗ trợ đầu tư (các Điều 19-21)
Luật Đầu tư năm 2014 tiếp tục duy trì các hình thức hỗ trợ đầu tư đã được quy định trong Luật Đầu tư năm 2005 (như hỗ trợ chuyển giao công nghệ, đào tạo, dịch vụ đầu tư, v.v..), đồng thời hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế theo hướng:
– Xác định rõ các điều kiện, tiêu chí hỗ trợ một phần vốn ngân sách và nguồn vốn tín dụng ưu đãi để đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong và ngoài hàng rào KCN, KCX, KKT tại một số địa phương có địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn hoặc địa bàn kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.
– Tạo cơ chế hỗ trợ phát triển nhà ở và công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động trong KCN, KCX, KKT theo hướng yêu cầu các địa phương có KCN, KCX, KKT phải xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà ở, công trình dịch vụ và tiện ích công cộng cho người lao động. Đối với các KCN, KCX gặp khó khăn trong bố trí quỹ đất xây dựng nhà ở cho người lao động, cơ quan có thẩm quyền quyết định việc dành một phần diện tích đất để phát triển nhà ở và công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động.
5. Hình thức đầu tư
5.1. Về đầu tư theo hình thức thành lập tổ chức kinh tế (Khoản 1 Điều 22)
Nhằm xóa bỏ một số hạn chế, phân biệt đối xử đối với nhà đầu tư nước ngoài trong việc thành lập doanh nghiệp và thực hiện hoạt động đầu tư, góp phần tạo mặt bằng pháp lý thống nhất về quyền thực hiện hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, Luật Đầu tư năm 2014 đã quy định một số nội dung sau:
– Nhà đầu tư trong nước và nước ngoài được thành lập tổ chức kinh tế phù hợp với tất cả loại hình tổ chức kinh tế. Trước khi thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư nước ngoài phải có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (Khoản 1 Điều 22).
– Nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu vốn điều lệ với mức không hạn chế trong doanh nghiệp Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác. Như vậy, theo các quy định nêu trên, trừ một số hạn chế về tỷ lệ vốn góp và phạm vi hoạt động theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế, nhà đầu tư nước ngoài đã được đối xử bình đẳng với nhà đầu tư trong nước về quyền thực hiện hoạt động đầu tư.
5.2. Đầu tư theo hình thức góp vốn, mua lại phần vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp (Điều 25, Điều 26)
a) Luật Đầu tư năm 2014 sửa đổi bổ sung quy định về vấn đề này theo hướng khẳng định quyền của nhà đầu tư trong việc góp vốn, mua lại phần vốn góp, mua cổ phần của doanh nghiệp phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp và trên cơ sở đáp ứng các điều kiện, thủ tục được quy định cụ thể tại Luật này. Doanh nghiệp nhận vốn góp hoặc bán cổ phần, phần vốn góp cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện thủ tục đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
b) Luật Đầu tư năm 2014 cũng quy định cụ thể trường hợp phải thực hiện thủ tục đăng ký góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế, cụ thể:
– Nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài;
– Việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp dẫn đến nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trên 51%, nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên của tổ chức kinh tế.
5.3. Đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP
Luật Đầu tư năm 2014 bổ sung quy định về đầu tư theo hình thức Hợp đồng PPP phù hợp với chủ trương thu hút các nguồn vốn đầu tư tư nhân để phát triển các công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công (Điều 27). Theo đó, nhà đầu tư ký kết Hợp đồng PPP với Cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công.
5.4. Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC
Luật Đầu tư năm 2014 kế thừa những quy định của Luật Đầu tư năm 2005 về hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC. Hợp đồng BCC được ký kết giữa các nhà đầu tư trong nước thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự. Hợp đồng BCC được ký kết giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài hoặc giữa các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.
Các bên tham gia hợp đồng BCC thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng BCC. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều phối do các bên thỏa thuận.