1. Giới thiệu
– Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản là một quy định mới của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2017. Theo nguyên tắc chung của pháp luật dân sự, cá nhân, pháp nhân được tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận để xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
– Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, có trường hợp ngoại lệ. Đó là khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản thì một bên trong hợp đồng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, nếu các bên không đạt được thỏa thuận về việc sửa đổi hợp đồng thì một trong các bên có quyền yêu cầu tòa án chấm dứt hoặc sửa đổi hợp đồng. Đây là trường hợp hợp đồng có thể bị sửa đổi bởi một bên thứ ba theo quy định của pháp luật mà không phải theo ý chí của các bên trong quan hệ hợp đồng.
2. Khi nào thì tòa án can thiệp vào hợp đồng?
a) Điều 420 BLDS năm 2015 quy định trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý. Trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án sửa đổi hoặc chấm dứt hợp đồng. Như vậy, tòa án có thể can thiệp vào nội dung hợp đồng khi đáp ứng đủ ba (03) điều kiện sau:
– Khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản;
– Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý;
– Các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý.
b) Thế nào là hoàn cảnh thay đổi cơ bản? Theo khoản 2 Điều 420 BLDS năm 2015, hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây:
– Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng;
– Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn cảnh;
– Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;
– Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên;
– Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.
3. Giới hạn thẩm quyền của tòa án trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Theo quy định tại khoản 3 Điều 420 BLDS năm 2015, khi can thiệp vào hợp đồng trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, tòa án chỉ thẩm quyền:
– Chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định;
– Hoặc sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Tuy nhiên, tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi.
4. Hiệu lực của hợp đồng trong quá trình tòa án can thiệp vào hợp đồng.
Trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, tòa án giải quyết vụ việc, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác./.