3. Bổ sung các trường hợp loại trừ TNHS; quy định cụ thể các trường hợp được miễn TNHS
– Nhằm góp phần thể hiện tinh thần đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; tôn trọng và bảo đảm thực thi đầy đủ quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, BLHS năm 2015 đã phân định rõ những trường hợp không bị coi là tội phạm, không phải chịu TNHS khi bổ sung một chương riêng (Chương IV) với 07 điều quy định về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, trong đó, tiếp tục duy trì và cụ thể hóa 04 trường hợp như Bộ luật hiện hành (sự kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết và tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự), đồng thời, bổ sung thêm 03 trường hợp loại trừ TNHS là: Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội; Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh (các điều 24, 25 và 26). Việc bổ sung các trường hợp loại trừ TNHS nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn để người dân an tâm tự bảo vệ mình, tích cực tham gia phòng chống tội phạm; không làm cản trở việc cá nhân, công dân tham gia các hoạt động sản xuất, nghiên cứu khoa học vì lợi ích chung.
– BLHS năm 2015 cũng đã cụ thể hóa các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo hướng: (i) phân biệt những trường hợp đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự và trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự; (ii) bổ sung một số trường hợp có thể được miễn TNHS nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hiện nay (khoản 2 Điều 29).
4. Hạn chế hình phạt tử hình
4.1. Bỏ hình phạt tử hình ở một số tội danh
Cùng với sự phát triển của văn minh nhân loại, việc dần loại bỏ hình phạt tử hình đã trở thành một xu thế chung, tiến bộ của thế giới, mà pháp luật quốc tế yêu cầu và phù hợp với tiến trình cải cách pháp ở nước ta hiện nay. Quá trình hoàn thiện chính sách hình sự và BLHS nước ta qua các thời kỳ đều có xu hướng giảm các quy định về hình phạt tử hình, nếu như BLHS năm 1985 (qua 04 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997) có 44 điều luật quy định hình phạt tử hình đối với các tội phạm cụ thể (chiếm 20,37%), thì đến BLHS năm 1999 giảm xuống còn 29 điều (chiếm 11%) và sau lần sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã giảm xuống còn 22 điều (chiếm 8%). Tuy vậy, thực tiễn thi hành BLHS cho thấy, mỗi năm số người bị kết án và thi hành án tử hình vẫn còn cao, làm mất đi cơ hội phục thiện, tái hòa nhập cộng đồng đối với những người này, đồng thời chưa thể hiện tốt tính nhân đạo của pháp luật hình sự. Quốc hội đã nhất trí thông qua việc tiếp tục loại bỏ hình phạt tử hình đối với 07 tội danh trong BLHS năm 2015, đó là: Tội cướp tài sản (Điều 168); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193); Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249), Tội chiếm đoạt trái phép chất ma túy (Điều 252); Tội phá huỷ công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303); Tội chống mệnh lệnh (Điều 394) và Tội đầu hàng địch (Điều 399).
4.2. Không áp dụng hình phạt tử hình và không thi hành án tử hình đối với người từ đủ 75 tuổi trở lên
Điều 35 của BLHS năm 1999 quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội; không áp dụng hình phạt tử hình và không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử. Thực tiễn thi hành những quy định này thời gian qua đã phát huy tính tích cực trong việc thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng BLHS năm 2015, qua thảo luận và lấy ý kiến Nhân dân, nhiều ý kiến đề nghị và tán thành với việc cần mở rộng chế định này theo hướng: bổ sung quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử và không thi hành án tử hình đối với những người này. Cũng có ý kiến cho rằng vẫn cần phải áp dụng hình phạt tử hình nếu đối tượng này phạm các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc cầm đầu tổ chức, băng nhóm tội phạm nguy hiểm, tội phạm ma túy; tuy nhiên, thực tiễn xử lý cho thấy, các trưởng hợp này là rất ít, mặt khác, việc tiếp tục cho áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội từ đủ 75 tuổi trở lên là không nhân đạo và làm giảm ý nghĩa giáo dục. Do vậy, để góp phần thể hiện sâu sắc tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật hình sự nước ta, BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định mới: không áp dụng hình phạt tử hình đối với người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử và không thi hành án tử hình đối với họ (các khoản 2, 3 Điều 40 về hình phạt tử hình).
4.3. Không thi hành án tử hình trong một số trường hợp khác
Ngoài việc bổ sung quy định không áp dụng hình phạt tử hình và không thi hành án tử hình đối với người từ đủ 75 tuổi trở lên phạm tội, BLHS năm 2015 cũng bổ sung mới quy định: không thi hành án tử hình đối với người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ¾ tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn (điểm c khoản 3 Điều 40). Cơ sở của quy định này là: người phạm tội mang tính vụ lợi thì yếu tố khắc phục hậu quả, thu hồi lại tài sản chiếm đoạt cần được xem là một tình tiết đặc biệt khi thi hành án. Tuy nhiên, để bảo đảm sự công bằng, người phạm tội ngoài việc nộp lại tài sản tham ô, nhận hối lộ thì còn phải có đủ những điều kiện nhất định mang yếu tố tích cực như trên mới có thể được xem xét không thi hành án tử hình.
4.4. Quy định xét giảm án đối với người bị kết án tử hình được ân giảm xuống thành tù chung thân
BLHS năm 2015 đã bổ sung trường hợp giảm mức hình phạt đã tuyên: “Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm” (khoản 6 Điều 63) mà BLHS năm 1999 không quy định. Trong quá trình xây dựng dự án Bộ luật, cũng có ý kiến cho rằng không nên quy định cho tiếp tục xét giảm án đối với người bị kết án tử hình đã được ân giảm xuống thành tù chung thân để bảo đảm tính nghiêm trị của hình phạt. Tuy nhiên, nếu không tiếp tục xét giảm án sẽ phát sinh một loại hình phạt mới: tù chung thân không giảm án, tạo gánh nặng cho Nhà nước khi phải bảo đảm các điều kiện để thi hành án phạt tù suốt đời đối với những người này trong trại giam; mặt khác, sẽ làm cho người bị kết án nảy sinh tâm lý cực đoan, tiêu cực, chống phá trại giam, tự vẫn hoặc bỏ trốn, bởi họ không còn cơ hội, động cơ để cải tạo, phục thiện. Do đó, đa số ý kiến đều nhất trí quy định cho xét giảm án đối với các trường hợp này, nhưng cần có các điều kiện chặt chẽ, tránh lạm dụng. Tiếp thu các ý kiến, BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định cho phép người bị kết án tử hình được ân giảm tiếp tục được xét giảm nhưng phải có điều kiện chặt chẽ hơn so với người bị kết án tù chung thân khác, đó là: thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần thì vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.
5. Bổ sung mới quy định về tha tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 66)
BLHS năm 2015 đã bổ sung mới quy định về Tha tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 66) trong chế định về miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Quy định này nhằm tạo một cơ chế mới, hết sức đặc biệt được áp dụng đối với người đang chấp hành án phạt tù, mà thực chất là thay đổi biện pháp chấp hành hình phạt tù có điều kiện để người bị kết án được tiếp tục giáo dục, cải tạo ở môi trường xã hội bình thường dưới sự giám sát của chính quyền và cơ quan thi hành án hình sự. Đây là một giải pháp hợp lý theo tinh thần Chiến lược cải cách tư pháp, góp phần khắc phục những bất cập hiện nay trong việc áp dụng án treo, đặc xá. Tuy nhiên, để bảo đảm tính nghiêm minh và chặt chẽ, khoản 1 Điều 66 cũng quy định người đang chấp hành án phạt tù phải hội đủ nhiều yếu tố mới được xem xét áp dụng, trong đó, kết quả “đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí và các nghĩa vụ bồi thường dân sự” là một trong các điều kiện bắt buộc; đồng thời, khoản 2 Điều 66 cũng quy định loại trừ những trường hợp không được áp dụng . Ngoài ra, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện mà cố ý vi phạm nghĩa vụ hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính từ 02 lần trở lên trong thời gian thử thách thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù còn lại (khoản 4 Điều 66). Việc quy định chặt chẽ các điều kiện được tha tù trước thời hạn đối với người đang chấp hành án phạt tù, ngoài kết quả chấp hành án, người được xét phải có đủ các yếu tố nhân thân khác là hết sức cần thiết, bảo đảm ý nghĩa, tác dụng của biện pháp này, phòng ngừa được nguy cơ tái phạm từ người bị kết án, đồng thời tránh lạm dụng, tùy tiện trong quá trình áp dụng biện pháp này.